Cây ác-ti-sô.
Trong các loại dược thảo có
tác dụng lợi mật, trị viêm
gan, ác-ti-sô chiếm một vị trí
quan trọng. Nó làm tăng
mạnh lượng mật bài tiết,
tăng lượng nước tiểu và
nồng độ urê trong nước tiểu,
giảm lượng urê và
cholesterol trong máu.
Ác-ti-sô được dùng làm thuốc
thông mật, điều trị hỗ trợ trong
các bệnh viêm gan, suy gan.
Dạng dùng là lá tươi hoặc khô
(liều tương đương 2-10 g lá khô
một ngày), sắc uống hoặc nấu
cao rồi bào chế thành viên, hay
chiết xuất thành dạng cao lỏng
tinh chế, dùng dưới hình thức
giọt.
Viên cynaraphytol chứa 200 mg
cao tinh chế từ lá tươi ác-ti-sô.
Ngày dùng 2-4 viên. Trà túi lọc
ác-ti-sô được bào chế từ các bộ
phận của cây với tỷ lệ: thân 40%
, rễ 40%, hoa 20%. Mỗi túi chứa
2 g, liều dùng không hạn chế.
Một số loại thảo dược trị bệnh
gan mật khác:
Dành dành: Cao chiết từ quả
dành dành làm tăng sự tiết mật.
Trong thử nghiệm trên thỏ đã
thắt ống dẫn mật chủ, cao nước
và hoạt chất trừ dành dành ức
chế sự gia tăng bilirubin trong
máu. Dành dành còn có tác dụng
kháng khuẩn và chống viêm.
Trong y học cổ truyền, nó là một
vị thuốc được dùng từ lâu đời
chữa bệnh vàng da. Ngày dùng
6-12 g quả dưới dạng nước sắc
hoặc hoàn tán.
Đại hoàng: Có tác dụng làm
tăng tiết mật, kháng khuẩn, lợi
niệu. Với liều vừa phải (0,5-2 g),
nó chữa các chứng vàng da, kém
ăn, ăn không tiêu. Ở liều cao, nó
là thuốc tẩy nhẹ dùng cho
người bị vàng da nặng, đầy
bụng, đại tiện bí. Ngày dùng
3-10 g sắc uống. Phụ nữ có thai,
đang cho con bú hoặc người bị
sỏi niệu calci oxalat không dùng
đại hoàng.
Hoàng cầm: Có tác dụng ức chế
kháng nguyên bề mặt của virus
gây bệnh viêm gan B. Trong y
học cổ truyền, hoàng cầm được
dùng điều trị bệnh vàng da.
Ngày uống 6-15 g dạng thuốc
sắc hoặc bột.
Nghệ: Tinh dầu nghệ có tác
dụng làm tăng tiết mật nhờ
thành phần p-tolylmethyl
carbinol. Nghệ còn có tác dụng
chống viêm và kháng khuẩn.
Một bài thuốc có nghệ đã được
áp dụng điều trị viêm gan do
virus và hầu hết bệnh nhân thử
nghiệm đều khỏi. Trong y học cổ
truyền, nghệ được dùng chữa
bệnh vàng da. Ngày uống 2-6 g
dưới dạng bột hoặc thuốc sắc,
chia làm 2-3 lần.
Nhân trần: Cao chiết từ nhân
trần có tác dụng làm tăng tiết
mật, tăng chức năng thải trừ
của gan, kháng khuẩn và chống
viêm. Nhân trần đã được áp
dụng điều trị cho các bệnh nhân
mắc viêm gan do virus cấp tính,
bệnh vàng da.Trong y học cổ
truyền, nhân trần được dùng
chữa vàng da, sốt nóng, tiểu
tiện không thông. Ngày dùng
8-20 g, dưới dạng thuốc sắc, siro
hoặc thuốc viên.
Các bài thuốc cụ thể
- Vàng da, vàng mắt, sốt: Dành
dành 5 g, hoàng bá 5 g, cam
thảo 2g. Sắc uống ngày một
thang. Hoặc: Nhân trần 20 g,
dành dành 12 g, đại hoàng 4 g.
Sắc uống ngày một thang.
- Viêm gan, vàng da, vàng mắt:
Nhân trần 30 g, dành dành 12 g,
vỏ đại 10 g (hoặc chút chít 8 g).
Sắc uống ngày một thang.
- Viêm gan, tắc mật: Đại hoàng
tẩm rượu sao, tán bột. Ngày
uống 2-4 lần, mỗi lần 2 g.
- Viêm gan do virus cấp tính:
Hoàng cầm, hoàng bá, hoàng
liên, dành dành mỗi vị 12 g,
nhân sâm, thạch xương bồ, đại
hoàng sống mỗi vị 8 g. Sắc uống
ngày một thang.
- Viêm gan do virus mạn tính:
Nhân trần 20 g, kim ngân 16 g,
hoàng cầm, hoạt thạch đại phúc
bì, mộc thông mỗi vị 12 g, phục
linh, trư linh, bạch đậu khấu mỗi
vị 8 g, cam thảo 4 g. Sắc uống
ngày một thang.
- Viêm gan, suy gan, vàng da: Bồ
bồ 10 g, nghệ, dành dành, râu
ngô mỗi vị 5 g. Mỗi ngày uống
một thang dưới dạng thuốc sắc,
siro hoặc cốm. Hoặc: Rau má 4 g,
núc nác 3 g, nhân trần 3 g, nghệ,
sài hồ nam, dành dành, nhọ nồi,
hậu phác nam (vối rừng) mỗi vị
2 g.
Nghệ, dành dành, hậu phác nam
được tán bột mịn, các vị khác
nấu cao đặc với nước. Làm viên
hoàn, ngày uống 10 g, chia làm 2
lần.